Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng Báo chí Cách Mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng Báo chí Cách Mạng Việt Nam
Vai trò tiên phong của báo chí trong công cuộc đổi mới đất nước
Bài 1: “Ðổi mới tư duy kinh tế” xuất hiện trên mặt báo
Thứ bảy: 06:05 ngày 21/06/2025

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTN) - Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá V, báo chí Việt Nam, đặc biệt Báo Nhân Dân tăng liên tục loạt bài về đổi mới tư duy kinh tế, nhân tố quan trọng đầu tiên để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá V, báo chí Việt Nam, đặc biệt Báo Nhân Dân tăng liên tục loạt bài về đổi mới tư duy kinh tế, nhân tố quan trọng đầu tiên để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

Trang nhất Báo Nhân dân số ra ngày 20.3.1979 đưa tin về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Uốn nắn nhận thức

Ðây cũng là lần đầu tiên, khái niệm “đổi mới tư duy kinh tế” được đưa lên mặt báo. Những bài báo đó đã uốn nắn một số nhận thức không đúng trong Ðảng, trong dân về chủ nghĩa xã hội, về vai trò của kinh tế thị trường, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ổn định xã hội và chức năng quản lý của nhà nước. Từ những kinh nghiệm quản lý kinh tế ở một số cơ sở, địa phương... trên các báo chí đã có nhiều bài điều tra, phóng sự, tranh luận về những vấn đề của đất nước như: trả lương bằng tiền, bù giá vào lương, xoá bỏ tem phiếu, bán lẻ theo một giá làm cho người tiêu dùng có sự lựa chọn tự do mặt hàng và nơi mua hàng: “Trong việc cải tiến quản lý kinh tế, quản lý xí nghiệp, hàng trăm cơ sở sản xuất quốc doanh ở các ngành khác nhau đã áp dụng có hiệu quả những hình thức cụ thể trả lương khoán: khoán tập thể theo sản phẩm cuối cùng, khoán sản phẩm theo đơn giá luỹ tiến, khoán gọn công trình xây dựng... Nhờ làm tốt hình thức trả lương này, nhiều xí nghiệp đã giành được thế chủ động tiếp tục đẩy mạnh sản xuất đưa công tác quản lý ở cơ sở đi vào nền nếp, từng bước tăng thêm thu nhập về tiền lương, tiền thưởng cho người lao động. Ðó là một bước trong việc kết hợp kế hoạch hoá với hạch toán kinh tế và sử dụng đòn bẩy kinh tế trực tiếp ở cơ sở”.

Tiến tới Ðại hội lần thứ VI của Ðảng, báo chí đã chuẩn bị tài liệu và đăng tải các bài viết về yêu cầu bức bách phải đổi mới trong nền kinh tế quốc dân. Cụm từ đổi mới xuất hiện mạnh dạn trên báo chí lúc này thực sự đã có sức mạnh và trở thành chủ đề lớn của báo chí cuối giai đoạn 1976-1986. “Có đổi mới tư duy kinh tế mới dám thừa nhận và thay đổi những quyết định sai lầm trước đây trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, dũng cảm xử lý những việc nảy sinh trong cuộc chuyển hướng, điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư năm tới. Có đổi mới tư duy kinh tế mới đổi được cơ chế quản lý theo phương hướng có ý nghĩa cách mạng sâu sắc là kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa”.

Thể hiện khát vọng hoà bình

Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc sau khi đất nước thống nhất, báo chí Việt Nam tuyên truyền cho chủ trương hoà bình, hữu nghị, mong muốn làm bạn với tất cả các nước, đặc biệt là mối quan hệ khăng khít với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. “Sự đoàn kết hợp tác Việt Nam - Liên Xô là một biểu tượng của sự đoàn kết cách mạng và hợp tác đồng chí giữa các nhà nước kiểu mới trong thời đại chúng ta. Lịch sử đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Ðảng và hai dân tộc đã có lịch sử lâu dài trên một nửa thế kỷ và trở thành một truyền thống quý báu. Ðoàn kết, hợp tác với Liên Xô là vấn đề nguyên tắc và là một điều kiện quyết định đối với thắng lợi của cách mạng nước ta”. Sự kiện chiến tranh biên giới gây khó hiểu đối với dư luận trên thế giới, bởi vì những nước này (phía Nam và phía Bắc) đều là những người bạn láng giềng của nhân dân Việt Nam, cùng sát cánh và hỗ trợ Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập tự do, đồng thời góp phần vào phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Trong khi đó, vừa thống nhất đất nước  chưa được bao lâu thì lại có cuộc xung đột giữa những người anh em này. Vấn đề này đặt ra cho báo chí thời phải thực sự tỉnh táo, phân tích chủ nghĩa bá quyền, nhưng phải tuyên truyền giữ tình cảm dân tộc giữa nhân dân hai nước, đồng thời phải giải thích, tuyên truyền với dư luận thế giới. Phần lớn báo chí thời kỳ này đi vào phân tích tình hình và nguyên nhân xảy ra chiến tranh, đồng thời động viên tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế. Bằng cách phân tích bản chất phản động, bất tín của Khmer đỏ, báo chí đã gợi lên cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới hiểu rõ cuộc chiến tranh giữa hai nước anh em. “Những người cầm quyền Campuchia vừa tiến công lãnh thổ nước ta vừa không ngớt lời rêu rao rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam xâm phạm biên giới, xâm phạm lãnh thổ nước họ. Ðây là những điều hoàn toàn bịa đặt. Tuy vậy, để tránh mọi sự hiểu lầm, để ngăn chặn mọi khả năng va chạm giữa hai bên, chúng ta đề nghị “lực lượng vũ trang của mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình, cách đường biên giới năm kilômét”. “Tại sao những người cầm quyền Campuchia không chấp nhận? Phải chăng họ sợ làm như vậy thì họ sẽ không còn có điều kiện để vừa xâm phạm lãnh thổ nước ta, tiến công nhân dân ta vừa vu cáo chúng ta xâm phạm biên giới nước họ?”. Vấn đề quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia thời kỳ này rất phức tạp, vì thế sau khi đánh đuổi bọn diệt chủng khỏi bờ cõi đất nước, báo chí Việt Nam đi vào ca ngợi những anh hùng, chiến sĩ trên chiến trường và tình quân dân thắm thiết. Báo chí còn đề cao tấm gương cao đẹp của quân và dân ta không tiếc xương máu để cứu nhân dân Campuchia khỏi hoạ diệt chủng.

Báo chí Việt Nam thể hiện rõ sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế. “Các nhà báo Mỹ Latinh chúng tôi đứng về phía Chính phủ và nhân dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hoan nghênh ý muốn của Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không để cho xung đột phát triển nữa và chấm dứt cuộc xung đột đó thông qua đàm phán và thương lượng giữa hai nước anh em”.

Có thể nói, thể loại mang tính xung kích trong thời kỳ này là xã luận và bình luận đã phát huy tối đa tác dụng của mình. Hàng loạt những bài viết ca ngợi sức chiến đấu anh dũng của nhân dân cùng với những bài viết thể hiện khát vọng hoà bình và tinh thần đoàn kết, xả thân bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và nền độc lập của Tổ quốc. Những nội dung được phản ánh trên báo chí Việt Nam giai đoạn 1976-1986 không chỉ dừng lại ở những vấn đề ở trên, thực sự, báo chí đã bao quát cả những mảng đề tài khác đa dạng và phong phú hơn. Tất cả những nội dung đó đã khẳng định báo chí trong thời kỳ này là một loại hình phản ánh muôn mặt của đời sống xã hội Việt Nam thống nhất, đồng thời có những đóng góp to lớn trong các hoạt động của đất nước. Về nội dung, có thể khẳng định, báo chí đã bám sát theo từng sự kiện của cuộc sống, phản ánh kịp thời, khách quan tới công chúng. Mặc dù vậy, báo chí thời kỳ này thực sự chưa hấp dẫn. Ðiều đó được biểu hiện ở hình thức trang báo chưa đẹp mắt, nội dung thông tin hiệu quả chưa cao. Một đặc điểm nữa, nghệ thuật trình bày, phong cách viết các tờ báo giống nhau, thiếu sự sáng tạo của mỗi tờ báo... Vì thế, trong thời kỳ đổi mới đất nước sau này, báo chí cũng phải điều chỉnh, kịp thời nắm bắt yêu cầu mới về kinh tế - xã hội.

Việt Ðông

(còn tiếp)

 

Tin cùng chuyên mục