Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTNO) - Chiến tranh kết thúc lâu rồi nhưng những người lính ấy vẫn không trở về, họ chỉ còn để lại cái tên vẫn chưa được vào danh sách Tổ quốc ghi công. Chính điều đó khiến cho những người còn sống không khỏi nặng lòng.

Chiến tranh đã lùi xa, hầu hết những người có công với Tổ quốc đã và đang được hưởng đúng, hưởng đủ chế độ. Thế nhưng, vẫn còn đó không ít thân phận người lính chưa được làm sáng tỏ. Ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, các chàng trai trẻ bỏ lại sau lưng mẹ hiền, em nhỏ, bạn quý, người yêu...
Chiến tranh kết thúc lâu rồi nhưng những người lính ấy vẫn không trở về, họ chỉ còn để lại cái tên vẫn chưa được vào danh sách Tổ quốc ghi công. Chính điều đó khiến cho những người còn sống không khỏi nặng lòng.
|
Ở tuổi 67, ông Luông vẫn trông chờ đến ngày cha mình được công nhận liệt sĩ.
Qua đợt tổng rà soát người có công với cách mạng trong hai năm 2014 - 2015, tỉnh Tây Ninh có 3 trường hợp chưa được công nhận liệt sĩ vì không có giấy tờ để chứng minh. Trong khuôn khổ bài báo này, người viết xin đề cập đến hai trong số ba trường hợp đó.
Gần 70 năm chờ đợi
Thông tin đang được lưu trữ tại Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội (Phòng LĐ-TB&XH) huyện Bến Cầu cho biết, ông Diệp Văn Mừng, sinh năm 1920 từng làm văn thư cho Công an xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 30.1.1948, tại một địa danh được xác định là Bàu Miễu, xã Lợi Thuận, trong lúc đang trên đường đi làm nhiệm vụ, ông Mừng bị bọn phản động tay sai thực dân Pháp bắn chết. Ông Mừng có vợ là bà Nguyễn Thị Bảy, chết năm 1964. Sinh thời, hai ông bà sinh được hai người con, trong đó một người đã chết từ lúc nhỏ, người còn lại tên là Diệp Văn Luông, hiện đang sống tại khu phố 4, thị trấn Bến Cầu.
Năm 2004, gia đình ông Luông lập hồ sơ nộp Phòng LĐ-TB&XH huyện Bến Cầu để làm thủ tục đề nghị công nhận liệt sĩ đối với ông Mừng. Tuy nhiên, theo quy định tại thời điểm đó thì ông Mừng không hội đủ điều kiện để công nhận liệt sĩ.
Năm 2013, liên bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Quốc phòng ban hành Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP (Thông tư 28) hướng dẫn xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ.
Căn cứ vào tinh thần của Thông tư 28, Phòng LĐ-TB &XH Bến Cầu mời gia đình ông Luông ra làm lại hồ sơ. Tháng 5.2015, hồ sơ liệt sĩ của ông Mừng được Hội đồng chính sách của huyện thông qua. Tính đến thời điểm hiện tại, hồ sơ liệt sĩ của ông Mừng vẫn còn thiếu giấy xác nhận của Sở LĐ-TB&XH về việc hài cốt của ông đã được an táng trong nghĩa trang liệt sĩ huyện Bến Cầu.
Theo ý kiến của đại diện Phòng LĐ-TB&XH thì về cơ bản, hồ sơ của ông Mừng đã thoả mãn các điều kiện để được công nhận là liệt sĩ. Theo dự kiến, tháng 7 này, hồ sơ sẽ được chuyển về Sở LĐ-TB&XH và các cấp có thẩm quyền.
Tiếp khách trong ngôi nhà cấp bốn, ông Diệp Văn Luông cho biết, ông sinh năm 1948, chính là năm cha ông bị lực lượng phản cách mạng bắn chết.
Sau khi mẹ qua đời, ông Luông sống với người chú ruột. “Ký ức của tui về ba mẹ mơ hồ, mù mờ lắm, tui chỉ nghe kể lại rằng ba tui làm cách mạng và bị bắn chết” - người đàn ông tuổi 67 vóc vạc gầy gò, dáng đi hơi liêu xiêu bày tỏ mối băn khoăn, thắc mắc: vì sao cha ông là liệt sĩ và cũng đang yên nghỉ trong nghĩa trang liệt sĩ nhưng cho đến nay, đã gần 70 năm trôi qua kể từ ngày cha ông hy sinh mà vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ?
Tìm anh phương nào?
Trong đợt tổng rà soát vừa qua, tại huyện Dương Minh Châu có một trường hợp nhiều khả năng là liệt sĩ nhưng chưa được công nhận cũng vì không có giấy tờ chứng minh. Đó là trường hợp của quân nhân Trần Văn Giàu.
Bà Trần Thị Sang, em ruột của ông Giàu kể: thời kháng chiến chống Mỹ, gia đình bà sinh sống ở xã Suối Đá, huyện Dương Minh Châu. Ông Giàu- anh trai bà sinh năm 1944, tham gia cách mạng năm 1959 với vai trò du kích xã.
Trong khoảng thời gian đầu những năm 1960, tại huyện Dương Minh Châu, lực lượng cách mạng có mở lớp đào tạo bộ đội đặc công, trinh sát. Là người gan dạ, anh thanh niên Trần Văn Giàu liền tham gia lớp đặc công. Sau đó, nhận thấy tình hình chiến tranh còn kéo dài, chàng trai trẻ về nhà bày tỏ ý nguyện muốn vào bộ đội chủ lực với cha mình.
Cha anh dạy, đánh giặc thì ở đâu cũng là đánh, muốn đi bộ đội chủ lực cũng được nhưng cưới vợ rồi hãy đi. Anh con trai trả lời: chiến tranh còn chưa biết kéo dài bao lâu, chưa biết sống chết thế nào mà cưới vợ, lỡ mình chết đi để lại vợ goá con côi thì tội nghiệp cho người ta.
Năm 1964, Trần Văn Giàu chính thức tham gia bộ đội chủ lực tại một đơn vị gọi là Q763. Năm 1967, ông bị thương trong một trận đánh tại Phước Long. Sau khi bị thương, ông Giàu có về thăm và tham dự đám cưới của em gái. Đây là lần gặp cuối cùng của hai anh em.
Sau đó, ông Giàu trở lại đơn vị, còn hai vợ chồng bà Sang tiếp tục làm việc tại Ban An ninh R (thuộc huyện Tân Biên). Bà Sang làm y tá, chồng làm công tác an ninh. Lúc bấy giờ cả cha và mẹ của bà đều đã mất, nhà chỉ còn mình cô em gái út 16 tuổi tên Trần Thị Quý nên bà Sang đã về đưa em vào rừng, tham gia kháng chiến.
Theo lời kể, đầu năm 1968, bà Sang đang làm y tá tại một đơn vị có tên gọi C109, P17 (trại giam của Ban An ninh R - theo giải thích của bà Sang). Tại đây, bà được biết đơn vị của anh trai về đóng quân ở Tân Biên. Nghe tin, hai vợ chồng bà Sang có đến gặp chỉ huy đơn vị để hỏi thăm về anh trai mình.
Lúc đó, vị chỉ huy báo tin rằng ông Giàu đã hy sinh tại Thủ Đức, thời điểm hy sinh là 10 giờ ngày 3.2.1968 và được đơn vị chôn cất tại một địa điểm nằm cách quận Thủ Đức 200 mét, nhưng không nhớ rõ chôn ở hướng nào.
Bà Sang đề nghị được nhận giấy báo tử của anh trai, người chỉ huy kia trả lời: sau trận đánh ác liệt đó, đơn vị thương vong rất nhiều, chưa tập trung lại được. Ông động viên bà Sang ráng chờ một thời gian để đơn vị củng cố, sắp xếp lại, sẽ làm giấy báo tử luôn.
Nhưng bà Sang không ngờ rằng, đó là lần cuối cùng bà gặp người chỉ huy của anh trai mình, sau đó hoàn toàn mất liên lạc. Lúc trò chuyện bà cũng không kịp hỏi tên tuổi của người chỉ huy ấy. Cũng theo lời kể của bà Sang, trước khi cách mạng mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1968, bà biết chắc chắn rằng người anh của mình đang có mặt tại Thủ Đức.
Bởi vì, trong thời gian này, ông Bùi Quốc Cửu- chồng bà có gặp và trò chuyện với ông Giàu trước khi chia tay để vào trận đánh; ông Giàu tham gia đánh trận ở Thủ Đức, còn ông Cửu là trinh sát tham gia đánh vào nội thành. Trong trận đánh này ông Cửu bị thương tại lò gạch Chợ Lớn.
|
Bà Trần Thị Sang- em ruột ông Trần Văn Giàu.
Cũng như một số trường hợp thuộc dạng mất tin, mất tích khác, để có thông tin đáng tin cậy, có cơ sở về những trường hợp như thế, cần phải có nhân chứng. Theo tìm hiểu, trường hợp về người lính Trần Văn Giàu hiện rất ít nhân chứng.
Ở Suối Đá có một người biết ông Giàu từ hồi còn nhỏ, song nhân chứng này giờ đã bị tai biến, gần như mất hẳn khả năng nhận thức. Sau nhiều nỗ lực kết nối, người viết bài đã tìm được một nhân chứng khác đang ở xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
Đó là ông Lê Văn Bồi, năm nay 74 tuổi. Qua điện thoại, ông Bồi cho biết, ông quê gốc Cà Mau nhưng trưởng thành ở Tây Ninh. Trong khoảng thời gian từ năm 1964 đến cuối 1967, hai người lính trẻ Lê Văn Bồi và Trần Văn Giàu công tác tại một đơn vị hậu cần có tên gọi là C20, Đoàn 82 thuộc Cục Hậu cần của quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Theo ông Bồi, trước khi nổ ra các trận đánh, quân giải phóng đã vận chuyển vũ khí về ngoại vi và nội thành Sài Gòn. Do tình hình chiến sự, đầu năm 1968, ông Giàu được phân công đi về Sài Gòn. Kể từ thời điểm đó, hai người hoàn toàn bặt tin nhau. Năm 1972, có dịp gặp lại bạn bè đồng ngũ, ông Bồi mới biết tin là ông Giàu đã hy sinh.
“Tui tiếc hai thằng không chụp chung với nhau một tấm ảnh nào hết, chỉ nhớ là thằng Giàu lúc đó khoảng 24 tuổi, ít hơn tui 5 tuổi, trắng trẻo và đẹp trai lắm” - ông Bồi nhớ lại. Người cựu chiến binh này cũng cung cấp thêm thông tin: sau ngày 30.4.1975, hầu hết các đơn vị hậu cần đóng ở Tân Biên, Tây Ninh đã sáp nhập về với Quân khu 7, do đó, nếu muốn tìm kiếm thông tin thì nên đến Bộ Tư lệnh Quân khu 7.
Theo cá nhân ông Bồi, chuyện người lính Trần Văn Giàu hy sinh trong mùa xuân Mậu Thân 1968 là không có gì phải hoài nghi. “Hồi đó, anh em hậu cần hy sinh rất nhiều, chuyển vũ khí vào Sài Gòn rồi bị kẹt không ra được” - ông nói.
Bà Trần Thị Sang cho biết, khoảng 7 năm trước, bà có đến Sở LĐ-TB&XH và cũng đã đi gặp lãnh đạo Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh để tìm hiểu về thân phận người anh trai đã mất. Bà được cán bộ đưa cho một bộ hồ sơ bảo đem về ghi. Bà Sang cầm hồ sơ về nhưng vì không có người làm chứng nên không viết được.
Như có sự thôi thúc trong lòng, cách nay chừng 4 năm, hai mẹ con bà Sang tìm đến gặp lãnh đạo Quân khu 7 để tìm tung tích anh trai. Tại đây bà được trả lời: “Đơn vị chiến đấu của anh Giàu thuộc Sư đoàn 9, nên tới đó để tìm”. Hai mẹ con bà Sang lại tìm đường đến nơi, nhưng rồi cán bộ phụ trách cho biết là không thấy tên của quân nhân Trần Văn Giàu.
Người thân thuộc nhất của người lính đã khuất núi ấy giờ chỉ còn lại hai người em gái: bà Sang và bà Quý. Nguyện vọng tha thiết của hai bà là tìm được hài cốt của anh trai và mong cơ quan có thẩm quyền xem xét, công nhận anh trai mình là liệt sĩ- coi như có được một sự rõ ràng về danh phận, để người sống nhẹ lòng và người đã ra đi cũng được ngậm cười nơi chín suối.
VIỆT ĐÔNG
Theo tin tổng hợp của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, kết quả tổng rà soát cho thấy, cả nước có gần 76.000 trường hợp người có công hưởng chế độ chưa đầy đủ, hưởng sai chính sách gần 3.000 trường hợp và 64.000 người đang đề nghị được hưởng chính sách người có công. Trong số 64.000 người này, có khoảng 2.000 trường hợp đang chờ được công nhận liệt sĩ. Riêng Tây Ninh, đến thời điểm này có ít nhất 6 trường hợp được xem như là liệt sĩ nhưng chưa được công nhận. |