Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng
Để đừng xảy ra án oan sai
Kỳ 2: Đương sự chiếm lại nhà là hành vi phạm tội không chấp hành án (!?)
Thứ sáu: 10:34 ngày 03/04/2015

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTNO) - (BTNO) - Tại huyện Châu Thành xảy ra hai trường hợp cơ quan thi hành án bàn giao nhà đất cho người được thi hành án xong, sau đó đương sự chiếm lại nhà. Trong đó có trường hợp cơ quan chức năng xử lý về hành vi không chấp hành án. Đó là trường hợp của vợ chồng ông Tạ Văn Đùa.

>> Kỳ 1: Vụ án chồng trộm tiền vợ và bài học cho cơ quan tố tụng

Vợ chồng ông Đùa bên số tài sản còn để lại trên phần đất bị cưỡng chế.

Nguồn gốc sự việc

Theo bản án số 10/2006/DSST ngày 14.3.2006 của TAND huyện Châu Thành, năm 2001, vợ chồng ông Tạ Văn Đùa, bà Lê Thị Hạnh (ngụ ấp Long Chẩn, xã Long Vĩnh, huyện Châu Thành) sang lại một phần đất 14m x 70m ở ấp Long Chẩn, do ông Nguyễn Thành Suối đứng tên quyền sử dụng đất (QSDĐ) nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định (giấy CNQSDĐ ông Suối thế chấp cho ngân hàng).

Năm 2002, vợ chồng ông Đùa sang lại toàn bộ diện tích này cho ông Nguyễn Thanh Phong (ngụ Trường Huệ, Trường Tây, Hoà Thành) với giá 1,5 triệu đồng/mét ngang. Ông Phong còn sang lại của ông Suối 1 phần đất (3m x 70m) giáp ranh với đất mà ông vừa sang nhượng, với giá 1,4 triệu đồng/mét ngang.

Khi sang nhượng đất, ông Phong đặt cọc cho ông Suối 4,2 triệu đồng, cho ông Đùa 5,8 triệu đồng. Sau đó, ông Phong trả thêm cho ông Đùa 10 triệu đồng, còn nợ số tiền 5,5 triệu đồng đến nay chưa trả. Vì vậy, ông Đùa yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Trong khi đó, ông Phong cho rằng, ông chưa trả 5,5 triệu đồng là do ông Đùa, ông Suối chưa thực hiện chuyển QSDĐ cho ông. Phần lỗi này do ông Đùa nên ông Phong không đồng ý huỷ hợp đồng.

Ngược lại, vợ chồng ông Suối cho rằng, khi ông Đùa sang nhượng đất cho ông Phong, ông Đùa cho vợ chồng ông Suối mượn 6,3 triệu đồng trả nợ ngân hàng để lấy giấy CNQSDĐ, còn việc ông Phong sang nhượng đất, do chưa trả tiền nên vợ chồng ông Suối yêu cầu huỷ hợp đồng.

Toà sơ thẩm xác định vợ chồng ông Đùa sang nhượng đất của vợ chồng ông Suối đã trả đủ tiền, nhưng chưa hoàn tất thủ tục sang nhượng đất. Năm 2002, vợ chồng ông Đùa lại sang nhượng đất lại cho ông Phong.

Toà cũng xác định vợ chồng ông Suối trực tiếp làm giấy tay chuyển nhượng 2 phần đất (trong đó một phần đã sang nhượng cho ông Đùa) cho ông Phong, đồng thời ông Phong đã trả tiền cho vợ chồng ông Suối, ông Đùa 20 triệu đồng (do ông Đùa đại diện ký nhận).

Sau đó, vợ chồng ông Đùa đưa cho vợ chồng ông Suối 6,3 triệu đồng. Toà cũng xác định ông Phong có đưa vợ chồng ông Suối 4,2 triệu đồng. Tuy nhiên, vợ chồng ông Suối không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng, gây thiệt hại cho ông Phong.

Thời điểm toà án đưa vụ án ra xét xử (năm 2006), Toà xác định giá đất chênh lệch so với năm 2002 là trên 10 triệu đồng, nên vợ chồng ông Suối có trách nhiệm phải trả cho ông Phong.

Việc ông Phong chưa trả 5,5 triệu đồng khi sang nhượng đất của vợ chồng ông Đùa, Toà xác định là ông Phong vi phạm hợp đồng. Bởi việc ông Đùa chuyển nhượng đất cho ông Phong, nhưng lại do ông Suối đứng tên, việc này cả ông Phong và ông Đùa đều biết là trái luật nhưng vẫn thực hiện, là lỗi cả hai bên.

Vì vậy, toà sơ thẩm tuyên hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng ông Đùa với ông Phong và giữa vợ chồng ông Suối với ông Phong là hợp đồng vô hiệu, buộc vợ chồng ông Đùa hoàn trả cho ông Phong 15,8 triệu đồng, vợ chồng ông Suối hoàn trả cho ông Phong số tiền 4,2 triệu đồng tiền chuyển nhượng đất và 10,999 triệu đồng tiền bồi thường thiệt hại về hợp đồng.

Cả hai vợ chồng ông Đùa và ông Suối tiếp tục sử dụng phần đất trên. Toà ghi nhận việc tự nguyện tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng ông Đùa và vợ chồng ông Suối.

Tuy nhiên, tại bản án phúc thẩm ngày 21.5.2006, thẩm phán Huỳnh Văn Minh – Chủ toạ phiên toà cho rằng toà sơ thẩm tuyên hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng ông Đùa với ông Phong và giữa vợ chồng ông Suối với ông Phong là hợp đồng vô hiệu là có căn cứ.

Nhưng việc buộc vợ chồng ông Suối phải bồi thường giá trị chênh lệch phần đất cho ông Phong, trong khi vợ chồng ông Đùa lại không phải bồi thường là chưa bảo đảm  quyền lợi các bên và thiếu căn cứ pháp luật.

Toà phúc thẩm cho rằng, việc làm cho hợp đồng vô hiệu, ông Phong là người có 2/3 lỗi, vì ông là cán bộ địa chính nên biết rõ việc sang nhượng đất cần phải thực hiện đầy đủ các thủ tục do pháp luật quy định; còn vợ chồng ông Đùa, vợ chồng ông Suối mỗi người phải chịu 1/3 thiệt hại do đất tăng giá.

Vì vậy, Toà xác định vợ chồng ông Đùa phải có trách nhiệm trả cho ông Phong 18 triệu đồng (trong 54.200.000đ giá trị chênh lệch đất) và tiền đã nhận khi sang nhượng đất là 15,8 triệu đồng. Tương tự, vợ chồng ông Suối phải trả 3,6 triệu đồng (trong 10,8 triệu đồng giá trị chênh lệch đất) và tiền đã nhận khi sang nhượng đất là 4,2 triệu đồng.

Hoàn thành việc thi hành án

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ngày 20.3.2008, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Châu Thành ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, do vợ chồng ông Đùa không tự nguyện thi hành nên ngày 22.4.2009, Chi cục THADS huyện Châu Thành ban hành quyết định kê biên tài sản là nhà và đất toạ lạc tại ấp Long Chẩn, xã Long Vĩnh, huyện Châu Thành, sau đó tiến hành bán đấu giá tài sản. Ngày 2.3.2011, ông Trần Minh Trung trúng đấu giá tài sản trên.

Do vợ chồng ông Đùa không giao nhà đất nên ngày 25.7.2011, Chi cục THADS huyện Châu Thành ra quyết định cưỡng chế buộc vợ chồng ông Đùa giao quyền sử dụng đất cho ông Trung. Ngày 4.8.2011, Chi cục THADS huyện Châu Thành tiến hành cưỡng chế giao tài sản cho ông Trung. Sau đó, vợ chồng ông Đùa tự ý phá khoá để dọn đồ dùng vào nhà ở.

Ngày 6.3.2014, ông Trung làm đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với vợ chồng ông Đùa. Ngày 7.10.2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Thành ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với vợ chồng ông Đùa, bà Hạnh.

Ngày 4.11.2014, bà Hạnh bị Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành bắt tạm giam. Sau đó, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành ra cáo trạng truy tố vợ chồng ông Đùa tội “không chấp hành án” theo quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Tiếp xúc với chúng tôi, vợ chồng ông Đùa cho biết, vợ chồng ông làm nghề bán vé số, rất nghèo khổ. Sau khi Chi cục THADS huyện Châu Thành cưỡng chế giao nhà đất cho ông Trung, vợ chồng ông Đùa đã di dời tài sản sang nhà của ông Lê Văn Được (anh ruột của bà Hạnh). Quá trình cưỡng chế giao tài sản do Chi cục THADS huyện Châu Thành chủ trì, ông Đùa, bà Hạnh không chống lại việc thực hiện quyết định cưỡng chế.

Ban ngày, vợ chồng ông Đùa đi bán vé số, ban đêm về không có chỗ ở, trong khi đó ông Trung nhận tài sản nhưng chưa ở nên vợ chồng ông Đùa ra phía sau nhà tá túc tạm, đến mùa mưa gặp nhiều khó khăn. Trong một cơn mưa lớn, bà Hạnh đang bị bệnh nên vợ chồng bà “làm liều” phá khoá cửa chính vào bên trong để tá túc, sau đó ở luôn trong đó.

Khi ông Trung phát hiện, yêu cầu dọn đồ ra ngoài, trả lại nhà cho ông sử dụng thì vợ chồng ông Đùa không trả. Lúc này vợ chồng ông Đùa đang trông chờ vào khiếu nại gửi TAND tối cao xem lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm.

Quá trình tìm hiểu vụ việc, chúng tôi được biết ngày 17.8.2011 và ngày 30.7.2012, Chi cục THADS huyện Châu Thành có văn bản gửi Phòng Tài nguyên và Môi trường khẳng định “việc cưỡng chế giao tài sản cho người mua đấu giá thành đã thực hiện xong”.

Ngày 3.9.2014, Cục THADS tỉnh có văn bản gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành tiếp tục khẳng định điều này với nội dung sau: “Quá trình giải quyết vụ việc, chấp hành viên đã thực hiện các thủ tục tống đạt, niêm yết các văn bản thi hành án cho đương sự.

Tài sản bán đấu giá đã được giao xong cho người mua trúng đấu giá là ông Trần Minh Trung vào ngày 4.8.2011 và được cấp giấy CNQSDĐ vào ngày 10.11.2012 của UBND huyện Châu Thành. Toàn bộ quá trình giải quyết hồ sơ đều có sự tham gia giám sát việc tuân theo pháp luật của VKSND huyện Châu Thành và đơn vị này không có kiến nghị, kháng nghị nào. Như vậy, việc cưỡng chế để bảo đảm thi hành án đối với ông Đùa, bà Hạnh đã giải quyết xong”.

Chưa phù hợp theo quy định?

Theo tìm hiểu của chúng tôi, trong trường hợp này, Chi cục THADS huyện Châu Thành xác định việc thi hành án và giao tài sản xong, có sự giám sát của cả VKSND huyện Châu Thành, đồng thời không có đơn yêu cầu xử lý hình sự vợ chồng ông Đùa về hành vi không chấp hành án, vì đã có “hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của… thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” được quy định tại Điều 292 Chương XXII Bộ luật Hình sự.

Như vậy, trong trường hợp này, ông Trung tham gia tố tụng với tư cách gì trong vụ án- người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hay là người bị hại, trong khi ông Trung là người có đơn yêu cầu xử lý hình sự hành vi chiếm tài sản là nhà đất của vợ chồng ông Đùa?

Chúng tôi được biết, trước đây tại huyện Châu Thành có xảy ra một trường hợp tương tự như trường hợp vợ chồng ông Đùa, nhưng các ngành chức năng không xử lý hình sự về hành vi tái chiếm tài sản của đương sự này.

Cụ thể, bà H.L.T gửi đơn đến Báo Tây Ninh khiếu nại về trường hợp vợ chồng bà N.T.N.T và ông N.T.G tái chiếm tài sản là nhà đất của bà toạ lạc tại ấp Thanh Thuận, xã Thanh Điền, sau khi cơ quan thi hành án đã bàn giao tài sản cho gia đình bà khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bà T nhiều lần gửi đơn yêu cầu cơ quan chức năng huyện Châu Thành xử lý hành vi chiếm tài sản của những người trên nhưng cơ quan chức năng không xử lý.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, khi giải quyết khiếu nại trường hợp này, Cục THADS tỉnh có công văn báo cáo UBND tỉnh Tây Ninh, trong đó cho biết Văn bản số 404/TT-THA ngày 24.5.2005 của Thứ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn xử lý trường hợp đương sự tái chiếm đất khi đã cưỡng chế thi hành án xong rằng “cơ quan thi hành án giải thích và hướng dẫn đương sự đề nghị UBND hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết…

Đây là hành vi vi phạm pháp luật phát sinh mới của bên phải thi hành án. Có thể là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân được quy định tại Điều 137 Bộ luật Hình sự”.

Đức Tiến – Huy Thông

(Còn tiếp)

Ý kiến của Luật sư Nguyễn Thế Tân – Công ty Luật Đắc Tâm (Đoàn Luật sư Tây Ninh)

Điều 304 BLHS quy định: “Người nào cố ý không chấp hành bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.

Tội phạm này thể hiện hành vi không chấp hành bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật biểu hiện ở 2 dạng: Thứ nhất, dạng không hành động (như không bồi thường cho người bị thiệt hại; không giao lại nhà, tài sản chiếm giữ trái phép, không phân chia tài sản chung, không cấp dưỡng…) theo quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Thứ hai, biểu hiện dưới dạng hành động (như phân tán tài sản, xô xát, giằng co, chửi bới, xúc phạm danh dự của cán bộ thi hành án khi họ cưỡng chế thi hành án…).

Mặt khác, hành vi không chấp hành án chỉ bị coi là phạm tội, nếu trước đó người này đã bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết (như kê biên, niêm phong tài sản; cưỡng chế thi hành án, phạt hành chính…) nhưng vẫn không chịu thi hành bản án, quyết định của toà án.

Rõ ràng trong vụ án này, các bị can không có hành vi nào thuộc các trường hợp nêu trên mà vẫn bị truy tố về tôi danh này (?). Trước đó, các bị can đã bị cơ quan Thi hành án kê biên tài sản là ngôi nhà duy nhất bán đấu giá, và thi hành xong bản án phúc thẩm của toà án và các cơ quan cũng đã tiến hành cưỡng chế bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá. Người trúng đấu giá đã nhận tài sản và mua ổ khoá khoá cửa nhà lại. Theo tôi, trong trường hợp này các bị can không thể phạm tội “không chấp hành án” theo quy định của BLHS hiện hành.

 

Từ khóa:
Tin cùng chuyên mục
Ý kiến bạn đọc
Báo Tây Ninh