Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Nguyễn Ái Quốc đi sâu tìm hiểu Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. Để xây dựng tổ chức, Người đã tổ chức lại Hội Những người Việt Nam yêu nước bao gồm rất nhiều những người Việt có uy tín trên đất Pháp.

Từ nước Anh trở lại nước Pháp vào năm 1917 với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người đi sâu tìm hiểu về Cách mạng tư sản Pháp, về công xã Paris năm 1871. Một sự kiện không chỉ gây chấn động toàn thế giới mà còn có ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Ái Quốc: Cách mạng tháng Mười Nga thành công, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những người nô lệ đứng lên tự giải phóng cho mình.
Nguyễn Ái Quốc đi sâu tìm hiểu Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. Để xây dựng tổ chức, Người đã tổ chức lại Hội Những người Việt Nam yêu nước bao gồm rất nhiều những người Việt có uy tín trên đất Pháp.
Tranh vẽ Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh rời cảng Nhà Rồng sang Pháp, ngày 5.6.1911
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã thức tỉnh các dân tộc thuộc địa trên thế giới, thức tỉnh những người nô lệ trên khắp năm châu. Từ cổ vũ và thôi thúc của Cách mạng tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản - Quốc tế III do Lenin sáng lập ra đời.
Một trong những sự kiện quyết định đến sự lựa chọn dứt khoát con đường của cách mạng Việt Nam đó là khi Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của Lenin. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lenin.
Luận cương của Lenin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác hơn là con đường cách mạng vô sản.
Luận cương của Lenin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Người nói: “Luận cương của Lenin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lenin, tin theo Quốc tế thứ ba (1)”.
Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lenin”, Hồ Chí Minh cho biết thêm rằng: Trước khi đến với chủ nghĩa Lenin, “tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên”, tham gia Đảng Xã hội Pháp vì họ ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, còn “Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi không hiểu”.
Nhưng “từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Marx - Lenin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ (2)”.
Tin theo Lenin, đi theo con đường của Lenin vĩ đại, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp diễn ra cuối năm 1920 thành phố Tours (Pháp), Nguyễn Ái Quốc khi ấy tham dự với tư cách là đại biểu chính thức và được mời phát biểu.
Tại diễn đàn quan trọng này, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo những sự thật tàn bạo mà thực dân Pháp đã thi hành ở Đông Dương. Người kêu gọi Đảng Xã hội Pháp hãy hành động để ủng hộ các dân tộc bị áp bức, trong đó có nhân dân Đông Dương: “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa…(…) Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi! (3)”.
Chính tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta.
Đây là bước ngoặt vĩ đại trong cuộc đời cách mạng của Người, bởi từ quyết định này, Người đã chuyển hẳn từ lập trường của chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. Năm 1960, nhắc lại sự kiện này, Người đã viết “Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý của chủ nghĩa Mác - Lenin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa (4)”.
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước, cứu dân có ý nghĩa lịch sử to lớn, đó là:
Một là, trước hết, có thể khẳng định rằng hành động lịch sử gia nhập Quốc tế cộng sản và thành lập Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng mà dân tộc ta đã vấp phải từ nửa cuối thế kỷ XIX.
Bằng phát kiến vĩ đại này, cách mạng Việt Nam sau đó đã tìm thấy cho mình con đường đi thích hợp thoát ra khỏi khủng hoảng, bế tắc về đường lối tưởng không có đường ra. Con đường mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy là con đường đúng đắn, phù hợp với trào lưu tiến hoá chung của nhân loại và xu thế thời đại. Điều này đã được chứng minh bằng lịch sử dân tộc Việt Nam trong 100 năm qua.
Hai là, từ một dân tộc thuộc địa bị kìm kẹp dưới gót dày của quân xâm lược, những phong trào cách mạng nếu có nổ ra cũng chỉ trong phạm vi rất hẹp, cùng lắm là có sự ủng hộ của Trung Hoa khi ấy. Từ công lao vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc, phong trào cách mạng Việt Nam đã thoát ra khỏi bế tắc, chật hẹp và được nối liền với phong trào cách mạng sôi nổi trên thế giới. Kể từ đây, phong trào cách mạng Việt Nam đã gắn chặt với phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam không còn đứng đơn lẻ, cô độc mà đã trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên gắn chặt ngọn cờ độc lập dân tộc với ngọn cờ CNXH. Người đã đem ánh sáng của chủ nghĩa Marx - Lenin thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Marx- Lenin để từ đây, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh và được thể hiện sáng chói trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Bốn là, với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng chân chính, cách mạng với mục tiêu tất cả vì lợi ích của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Kể từ ngày 3.2.1930, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong dẫn lối, chỉ đường.
Đội tiên phong ấy đã cùng với nhân dân làm nên Cách mạng tháng Tám vĩ đại, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, làm nên một mùa xuân toàn thắng 30.4.1975.
Các cuộc cách mạng vĩ đạo này không chỉ giải phóng nhân dân Việt Nam, đem lại lợi ích lớn lao cho đất nước và nhân dân Việt Nam mà còn là động viên, khích lệ to lớn để các quốc gia trên thế giới đứng lên đấu tranh giành lại độc lập và quyền lợi chính đáng của mình.
Vì lẽ ấy, Nguyễn Ái Quốc không chỉ có công lao đối với dân tộc Việt Nam mà còn có công lao đối với các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Người đã có đóng góp không nhỏ đối với cho phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á nói riêng.
Có những sự kiện thời gian càng lùi xa càng tôn lên tầm vóc vĩ đại của nó, sự kiện Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam là một sự kiện mang tầm vóc vĩ đại.
Vũ Trung Kiên
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10, tr.127
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10, tr.128
(3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, HN. 2000, tập 1, tr. 23-24
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 10, tr.241