Sáng tác văn xuôi vẫn được xem là có nhiều thành tựu nổi trội và có những hiện tượng đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Vì vậy, nó đã thu hút được nhiều sự quan tâm của công chúng và giới nghiên cứu. Nhưng để có một cái nhìn toàn cảnh văn xuôi sau 1975 thì vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Để hình dung chính xác và đầy đủ về diện mạo và đặc điểm của văn xuôi cũng cần làm rõ hơn các khuynh hướng, các thể tài, các mảng đề tài với cái mới mà nó đem lại cho văn xuôi ba mươi năm qua. Để nhận diện và đánh giá đầy đủ hơn những đổi mới về nghệ thuật văn xuôi trên nhiều yếu tố như nghệ thuật trần thuật, kết cấu, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu... cũng cần đến nhiều công trình nghiên cứu, từ cụ thể đến khái quát. Một trong những đặc điểm thể loại của văn học đương đại là sự xâm nhập lẫn nhau, sự giao thoa của các thể loại. Các bảng phân chia thể loại quen thuộc trước đây dường như đã tỏ ra bất cập trước thực tiễn sinh động của văn học.
Trong ấn tượng của nhiều người, thơ là khu vực không gây được nhiều sự chú ý như văn xuôi. Chặng đầu của cuộc đổi mới văn học, văn xuôi nổi lên như một mũi tiên phong. Nhưng nhìn một cách tổng thể cả giai đoạn từ sau 1975, có thể thấy chính thơ và nhiều nhà thơ thuộc các thế hệ khác nhau đã và đang có nhiều nỗ lực cách tân rất đáng chú ý, mặc dầu thái độ của công chúng và của chính giới văn học trước các hiện tượng cách tân thơ là rất khác nhau. Trong khu vực thơ, tuy đã có một số công trình nghiên cứu đáng chú ý nhưng thường là hướng vào cái nhìn bao quát chung, cũng rất thiếu những công trình đi sâu tìm hiểu các phương diện cụ thể, như thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh và biểu tượng, tư duy nghệ thuật, các khuynh hướng và hiện tượng tiêu biểu mà lâu nay để cho tiện nhiều người vẫn gọi chung là xu hướng hiện đại chủ nghĩa trong thơ.
Nghiên cứu văn học Việt Nam từ sau 1975 không thể không đặt nó vào tiến trình văn học dân tộc thế kỷ XX và tiếp nối liền mạch sang thế kỷ XXI. Nhìn trên đại thể, văn học Việt Nam thế kỷ XX có ba chặng đường lớn: Từ đầu thế kỷ đến năm 1945- văn học chuyển từ phạm trù trung đại sang nền văn học hiện đại (mà 30 năm đầu là giai đoạn giao thời); từ năm 1945 đến 1975- văn học cách mạng phát triển trong điều kiện hai cuộc kháng chiến, và từ sau 1975 văn học thời hậu chiến và đổi mới. Ba chặng đường nói trên của văn học thế kỷ XX là sự tiếp nối của dòng chảy văn học dân tộc, vừa có sự biến đổi tạo ra các bước ngoặt, vừa có sự kế tục chứ không phải là những đứt gãy.
Bước vào công cuộc đổi mới, để khẳng định và thúc đẩy những tìm tòi đổi mới của văn học, người ta cần nhấn mạnh những khác biệt, thậm chí là sự đối lập, đoạn tuyệt với giai đoạn văn học trước đó. Nhiệt tình này đôi khi dẫn đến một thái độ định kiến thiếu khách quan đối với di sản văn học trước 1975. Sự khác biệt của hai chặng đường văn học trước và sau 1975 là điều hiển nhiên, có thể thấy trên rất nhiều phương diện. Những thành tựu và hạn chế của nền văn học sử thi thời chiến tranh không phải là không góp phần chuẩn bị và kích thích sự đổi mới văn học sau 1975.
Nếu nhìn trên tiến trình văn học cả thế kỷ, có thể thấy hướng vận động cơ bản là hiện đại hoá vẫn xuyên suốt các chặng đường văn học. Hiện đại hoá được khởi động ở vài chục năm đầu thế kỷ trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển văn học từ 1920 - 1945. Xu hướng ấy có bị lấn át bởi yêu cầu cách mạng hoá và hiện đại hoá trong giai đoạn 1945- 1975, nhưng đã trở lại thành một nhu cầu và hướng vận động của văn học sau 1975.
Những gương mặt nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam đương đại
Khi chuyển từ phạm trù văn học trung đại sang văn học hiện đại, nền văn học dân tộc cũng từng bước hội nhập với đời sống văn học toàn thế giới. Nhưng sự giao lưu và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học thế giới với văn học Việt Nam phụ thuộc nhiều vào điều kiện xã hội - lịch sử. Trong 30 năm chiến tranh, sự giao lưu này rõ ràng có nhiều hạn chế. Văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở lại đây, đã đi những bước tiếp xa hơn trên con đường hiện đại hoá nền văn học dân tộc ở thế kỷ XX, để hoà nhập đầy đủ vào tiến trình văn học thế giới. Nhưng nhận định bao quát đó cần được triển khai trong công việc nghiên cứu theo hướng văn học so sánh để chỉ ra một cách cụ thể sự giao lưu và ảnh hưởng của văn học hiện đại thế giới đối với văn học Việt Nam đương đại, ở nhiều cấp độ và bình diện, từ các trường phái, kiểu tư duy nghệ thuật cho đến các mô-típ chủ đề, hình tượng, các phương thức và phương tiện biểu đạt ở những tác giả, tác phẩm cụ thể.
Giai đoạn 1975-2025, 50 năm văn học không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện nhiệm vụ đấu tranh để bảo vệ những quan điểm của Đảng về văn học, chống những quan điểm sai trái, bảo vệ thành quả văn học cách mạng. Nghị quyết Trung ương 5 ghi rõ nhiệm vụ: “Đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của Đảng”, và phê phán những hiện tượng: “Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng “thương mại hoá”, chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học, nghệ thuật bị suy giảm”.
Trong thời buổi toàn cầu hoá, văn học Việt Nam đã từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Chúng ta đang cố gắng giảm bớt tình trạng “nhập siêu”, từng bước “xuất khẩu” văn học ra thị trường thế giới. Chưa nhiều, nhưng có cơ sở để tin tưởng khi tác phẩm của các nhà văn Việt Nam đã “đổ bộ” vào được những thị trường văn học khó tính như Mỹ, Anh, Pháp, Thuỵ Điển, Nhật Bản… Các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Lê Minh Khuê, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Phong Điệp, Mai Văn Phấn… đã có mặt và chiếm được cảm tình của người đọc các nước sở tại. Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức ba cuộc hội thảo quốc tế quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới.
Văn học mọi thời đại đều không thể đứng ngoài lịch sử và chính trị. Có những sự kiện trọng đại tác động đến toàn bộ đời sống mọi mặt xã hội, trong đó có văn học: Chiến tranh và hoà bình luôn luôn là hai mặt của đời sống xã hội loài người, trong đó có dân tộc Việt Nam. Thế giới ngày nay vẫn ngút ngàn khói lửa chiến tranh. Tiếp đến phải kể đến công cuộc đổi mới, từ năm 1986, đã thay da đổi thịt cuộc sống của nhân dân và đất nước, xây dựng, nâng cao hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Sự gia nhập các tổ chức quốc tế chứng tỏ Việt Nam không bị lạc hậu, không bị cô lập, không bị lãng quên trong một thế giới phẳng. Quá trình hội nhập đã làm “thông thương” con đường văn học Việt Nam ra thế giới.
Bài, ảnh: VIỆT ĐÔNG
Thiết kế: Ngọc Trâm