Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Kỉ niệm 80 năm Cách Mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2/9 Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thiên nhiên trong các khúc hát then cổ
Thứ bảy: 05:42 ngày 27/04/2013

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTNO) - Cùng với hát cọi, lượn, hát ru, hát pụt, quan làng, những khúc hát then đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hoá của dân tộc Tày.

HTML clipboard

Cùng với hát cọi, lượn, hát ru, hát pụt, quan làng, những khúc hát then đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hoá của dân tộc Tày

Theo quan niệm dân gian, Then có nghĩa là Thiên, Thiên tức là “trời”, được coi là điệu hát của thần tiên truyền lại. Dưới đây xin được giới thiệu đôi nét về “Thiên nhiên trong các khúc hát then cổ” của các thầy then Tuyên Quang.

... Đoàn quân then xuất phát từ trần thế tiến lễ lên Ngọc Hoàng và từ Ngọc Hoàng xuống trần thế là một quá trình đầy gian nan, thử thách nhưng cũng đầy lý thú. Cảnh vật thiên nhiên con người và những sự việc diễn ra trên đường hành lễ cả lúc đi và lúc về đoàn quân then bắt gặp đều được miêu tả, phản ánh khá phong phú. Cỏ cây, hoa lá, biển hồ, sông suối, con người… hiện lên như những bức tranh tả thực, có đoạn miêu tả khái quát, có đoạn là những câu chuyện ly kỳ, dí dỏm. Mọi sự vật xuất hiện trong các khúc hát then như có hồn. Mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên qua tưởng tượng của dân gian thật đa dạng, giàu có.

Thiên nhiên với con người trong then như một sự chia sẻ, tri kỷ kể cả những lúc đang trong cơn hoạn nạn, chán chường, sống chết kề bên như những phu chèo thuyền “Sluông” vượt biển trong khúc hát then Khảm hải (vượt biển).

Một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông chia mười hai tháng. Sự chuyển vận của thời tiết đã điều chỉnh hoạt động của muôn loài đổi thay theo từng tháng. Dân gian đã chớp lấy những biến động đó đưa vào trang then.

Chuẩn bị cất quân lên Ngọc Hoàng, nhà then tìm gặp ve sầu để mượn giọng của ve hát cho hay, nhưng khi nghe tiếng kêu thảm thiết của con ve sầu, đoàn quân then không nỡ ra đi, phải dừng lại tìm hiểu cội nguồn, thế là ve sầu trở thành một tích truyện dài trên 200 câu trong cung then (bài: Bắt ve sầu)

Khi biết được sự thể ngọn ngành của tiếng kêu, cảm cảnh trước mối tình éo le, ngang trái và khập khiễng của ve sầu, Cốc Cường (thầy Then) đã phân tích rõ nguyên nhân và chia sẻ sự mất mát về đường tình duyên của nàng, rồi thả cho nàng được tự do, quân then tiếp tục lên đường. Rõ ràng tình yêu thiên nhiên trong then không phải là thứ tình cảm chung chung mà là sự hoà hợp và hành động cụ thể.

Người Tày cũng như các dân tộc khác ở miền núi nguồn sống chính của họ là làm ruộng, làm nương để có thóc, ngô, khoai, sắn… duy trì sự sống, họ vui khi được mùa lúa tốt, bội thu, no đủ, họ buồn khi mùa màng thất bát, thiếu ăn, nghèo đói. Điều đó chắc chẳng riêng bây giờ mà từ cổ xưa, bao thế hệ đã là như vậy. Nhìn thấy cánh đồng đổi thay màu sắc vì sự sinh trưởng từng ngày của cây lúa là họ vui. Quang cảnh: “Sông cạn cá nháo nhác chạy thân, bò đi trâu cũng giẫm lên đầu” và màu xanh non, xanh thắm, xanh mượt của lá mạ, cái đẹp hây hây của cây lúa mọc thành búi, cái thích mắt của màu vàng rộ khi lúa chín ngoài đồng…Tất cả đều ùa vào khúc hát trong đoạn then “Bách cốc”:

Tháng hai ba gieo mạ ngoài đồng

Tháng tư mạ mọc xanh hàng nắm

Tháng năm mượt xanh thắm mạ non…

Tháng bảy đẹp hây hây thành búi

Tháng tám lúa che tối cả đồng

Tháng chín lúa chín vàng ngoài ruộng

Tháng mười gặt khắp chốn vào kho.

Quân then cũng nặng lòng với cảnh xuân sang, ong bướm tìm hoa, khi hoa tàn lại sinh ra cảnh ly biệt, họ luyến tiếc cảnh xuân “dập dìu tài tử giai nhân”.

Đến vườn cảnh bách hoa cam đào

Mừng ong điệp ra vào đón đưa

Hoa nở đủ đẹp mùa xuân quý

Thuận mùa này cho chí mùa sau.

Khi nên quả đua nhau la liệt

Càng tưởng càng luyến tiếc nhiều xuân

(Phóng lễ)

Người Tày quan niệm trên mặt trăng có nàng tiên ở, thường đêm rằm, trăng sáng mùa thu các cô gái, chàng trai mời then đến cùng xum họp ngoài sân hay trên nhà sàn; trước khói hương nghi ngút, then đàn hát đi trước, các chàng trai, cô gái đi sau hát múa. Họ hát khúc hát mời nàng Hai xuống cõi trần cùng hát cầu mùa. Trên đường hành lễ, quân binh nhà then gặp đàn bướm tại bãi soi, hỏi nguồn gốc, quê quán của bướm ở đâu, bướm rằng: Vốn xưa em cũng là con người, cũng có tình yêu, thầm ao ước kết duyên với nàng Quế, hẹn nàng tháng ba ra bãi soi vui chuyện, nhưng chờ mãi chẳng thấy nàng đâu, nỗi buồn khôn xiết, bực mình không chịu nổi em đã thắt cổ hoá kiếp thành con bướm. Hàng năm cứ đến tháng ba em lại ra bãi soi tìm bạn (đoạn then tu thổ công).

Ra đời từ trong lao động sản xuất và từ sự đòi hỏi về nhu cầu tinh thần, hát then và cây đàn tính đã phản ánh trí tuệ, tâm tư, nguyện vọng, phong tục tập quán của đồng bào Tày khá đậm nét. Đó là tiếng nói của nhân dân lao động, tiếng nói đó chứa đựng sâu sắc tính nhân văn, tình yêu cuộc sống. Thông qua làn điệu ngân nga của lời hát, hòa quyện cùng giai điệu trầm bổng của cây đàn tính do những ngón tay của nghệ nhân lướt trên dây tơ, âm thanh êm ái, trong trẻo khiến người nghe mê say, tan sầu muộn, thoải mái tâm hồn, bản làng nhà sàn nhờ vậy mà thêm ấm cúng, thiên nhiên trong then đã đẹp càng đẹp thêm.

Theo langvietonline

Từ khóa:
Báo Tây Ninh
Tin cùng chuyên mục